Các ứng dụng hiện đại của thuyết sử dụng và hài lòng Thuyết sử dụng và hài lòng

Điện thoại di động

Điện thoại di động, một công nghệ tương đối mới, có nhiều việc sử dụng và sự hài lòng gắn với chúng. Bởi vì tính di động tự nhiên của nó, sự tiếp cận liên tục và có quyền lựa chọn để bổ sung và truy cập nội dung, họ có thể đánh giá, trao đổi và so sánh thông tin với nhau. Những tài nguyên đó đang được mở rộng với sự nghiên cứu mới đằng sau việc sử dụng điện thoại di động.

Nhìn chung, con người sử dụng điện thoại di động để thỏa mãn những mục đích sử dụng và hài lòng sau:[12]

  • Tâm tư tình cảm/ Tiếp cận xã hội
  • Giải trí
  • Phương tiện
  • Đảm bảo các nhu cầu tâm lý
  • Xu hướng/Địa vị
  • Khả năng di động/Tiện lợi
  • Truy cập tức thời

Tuy nhiên, mục đích sử dụng và hài lòng còn thay đổi dựa trên vị trí và bản thân người dùng:

  • Việc sử dụng điện thoại di động trên xe buýt, xe hơi, xe lửa liên quan đến khả năng di động và truy cập tức thời
  • Nói chuyện với đối tác kinh doanh qua điện thoại liên quan đến tính công cụ.
  • Nói chuyện với thành viên trong gia đình qua điện thoại liên quan đến khả năng di động và truyền đạt tình cảm.

Chức năng cụ thể của việc nhắn tin được nghiên cứu[13] để tìm ra mục đích sử dụng và hài lòng của nó. Đồng thời còn khám phá ra những khác biệt trong nhân tố giới tính ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dùng. Những nhà nghiên cứu đã chứng minh được 7 yếu tố sử dụng và hài lòng đối với việc nhắn tin; nó được liệt kê bên dưới, từ cao nhất đến thấp nhất dựa trên kết quả của cuộc nghiên cứu:

  • Khả năng truy cập/ tính di động
  • Sự thư giãn
  • Trốn tránh
  • Giải trí
  • Tìm kiếm thông tin
  • Hợp tác kinh doanh
  • Quan hệ xã hội/ tìm kiếm tâm tư tình cảm
  • Theo đuổi địa vị

Kết quả cũng đã cho ra những sự khác nhau về giới tính: phụ nữ cho điểm mục đích sử dụng và hài lòng về khả năng tiếp cập/ khả năng di động, thư giãn, thoát hiểm và khả năng phối hợp cao hơn nam giới. Những kết quả này có lẽ sẽ là một ngụ ý giải thích cho các hiện tượng xã hội về phái yếu, phụ nữ có khuynh hướng trả lời nhiều hơn, cặn kẽ hơn cho một cuộc trò chuyện qua tin nhắn hơn đàn ông.[13]

Kể từ thời gian gần đây, việc sử dụng điện thoại di động như là một thiết bị để kết nối internet và cả để đóng góp và truy tìm cho các nội dung thông tin, các nhà nghiên cứu đã điều tra về các thiết bị thông minh để đo lường sử dụng và hài lòng thông qua tham gia vào các phương tiện truyền thông. Sự sử dụng và hài lòng áp dụng cho đóng góp nội dung trên di động khác với truy tìm nội dung trên di động:[14]

  • Đóng góp: Những sở thích, giải trí, tiếp cận dễ dàng, thêm các thông tin/ ý tưởng với một động lực cụ thể
  • Tìm kiếm: Truy cập hiệu quả các nguồn thông tin/ dịch vụ và cần có những thông tin chất lượng cao cho việc tiếp cận nội dung để thỏa mãn sự hài lòng.

Internet

Internet cung cấp những nguồn thông tin mới và đi sâu hơn trong việc đo lường và khám phá TSDVHL. Dựa vào Internet, chúng ta có thể chia sự hài lòng thành ba loại: Hài lòng về nội dung, quá trình, và xã hội được giải thích như sau:[15]

  • Nội dung: Mục đích sử dụng Internet bao gồm nghiên cứu hay tìm kiếm thông tin chính xác, và họ cần nội dung đó làm hài lòng họ.
  • Quá trình: Người dùng có được sự hài lòng từ các trải nghiệm của quá tìm kiếm có chủ đích hoặc lướt tìm ngẫu nhiên trên Internet trên quy trình chức năng của nó.
  • Xã hội: Người dùng có được các mối quan hệ xã hội được hình thành và gắn kết với nhau nhờ sử dụng internet.

Sử dụng phương tiện truyền thông

Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng những dịch vụ mạng xã hội, các blog cá nhân hoặc về các chủ đề khác nhau, và các diễn đàn trực tuyến gắn kết con người lại với nhau, nhằm nghiên cứu U&G trong các nội dung xã hội, các mối quan hệ giữa hài lòng và lòng tự ái, và ảnh hưởng của tuổi tác đối với những mối quan hệ đó với sự hài lòng. Người dùng có các động lực dưới đây để sử dụng phương tiện truyền thông:

  • Xã hội và tình cảm
  • Thể hiện những cảm giác tiêu cực
  • Sự công nhận
  • Giải trí
  • Nhu cầu nhận thức

Những diễn đàn trực tuyến là phương tiện chính để trút ra hết những cảm giác tiêu cực vì so với các phương tiện khác, chúng thường mang ý kiến một chiều hơn. Sử dụng phương tiện truyền thông giúp giảm sự cô đơn và thỏa mãn hành vi nghiện internet của con người. Tương tự như các biến số về giới tính, địa điểm và đối tượng nghiên cứu, việc sử dụng và hài lòng còn thay đổi dựa trên yếu tố “tự kiêu”. Các nhà nghiên cứu tìm thấy bốn loại tính cách tự kiêu đa chiều mà con người gặp phải: cảm giác có thẩm quyền hoặc vượt trội hơn người, thích gây sự chú ý, bóc lột và thường khao khát sự phù phiếm. U&G khác nhau tùy thuộc vào từng loại tự kiêu cụ thể mà người dùng có. Ví dụ, người thích gây sự chú ý có xu hướng tập trung vào phương tiện truyền thông xã hội để thể hiện tình cảm, cảm xúc tiêu cực và muốn được công nhận bởi mọi người trên mạng internet. Những người coi mình là tầng lớp thượng lưu, cấp trên có những công cụ sử dụng bởi động lực muốn người khác biết đến. Những người tự kiêu này họ chỉ hài lòng nhất khi được công nhận và nhận được sự chú ý,

Trang web kết nối bạn bè

Những trang web kết nối bạn bè được sử dụng rộng khắp trong xã hội, điển hình là MySpace và Facebook. Quan trọng là trong xã hội rộng lớn này chúng ta có thể tìm thấy những người bạn cũ, kết bạn giao lưu, học hỏi từ những sự kiện được chia sẻ, và cảm thấy được kết nối với mọi người.

Một số nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng mặc dù cảm xúc, nhận thức, xã hội và thói quen là động lực để sử dụng phương tiện xã hội, nhưng không phải tất cả các cách sử dụng đều được thỏa mãn. Theo một nghiên cứu trong một nhóm người sử dụng Facebook. Liên quan đến sự tham gia của công dân ngoại tuyến, 1.715 sinh viên đại học đã được yêu cầu "đánh giá mức độ thỏa thuận của họ với lý do cụ thể để sử dụng các nhóm trên Facebook, bao gồm thu thập thông tin về khuôn viên / cộng đồng, giải trí, giao tiếp xã hội với bạn bè và gia đình, và áp lực ngang hàng/ tự hài lòng.

Nghiên cứu cuối cùng mang lại kết quả thông qua phân tích nhân tố thành phần chính với vòng xoay varimax. Kết quả cho thấy có bốn nhu cầu sử dụng các nhóm Facebook, "xã hội hóa, giải trí, tìm kiếm trạng thái bản thân và thông tin."

  • Xã hội hóa: Học sinh thích nói chuyện và gặp gỡ những người khác để đạt được ý thức về cộng đồng và hỗ trợ đồng đẳng về chủ đề cụ thể của nhóm.
  • Giải trí: Học sinh tham gia với các nhóm để giải trí.
  • Tự tìm kiếm: Học sinh tìm kiếm hoặc duy trì trạng thái cá nhân của mình, cũng như của bạn bè, thông qua việc tham gia nhóm trực tuyến.
  • Thông tin: Học sinh đã sử dụng nhóm để nhận thông tin về các sự kiện liên quan diễn ra trong và ngoài khuôn viên trường.

Twitter

Twitter là một nền tảng vi-blog trực tuyến bao gồm cả chức năng truyền thông đại chúng và giao tiếp giữa các cá nhân thông qua việc gửi tweet. Nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan tuyệt đối giữa thời gian sử dụng Twitter và sự hài lòng về nhu cầu “giao tiếp thông thường” - sự kết nối giữa người với người. Hơn thế nữa, tần suất của các tweet và số lượng trả lời cũng như các tin nhắn công khai làm trung gian mối quan hệ giữa người dùng Twitter. Điều đó giúp gia tăng cả việc sử dụng và sự hài lòng của phương tiện bằng cách đáp ứng nhu cầu kết nối.[16]

Snapchat

Snapchat là nền tảng mạng xã hội chia sẻ hình ảnh với hơn 178 triệu người dùng trên toàn thế giới. Tương tự với các nền tảng mạng xã hội khác, mọi người sử dụng Snapchat để đáp ứng các nhu cầu truyền thông cụ thể. So với các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram thì Snapchat được sử dụng nhiều hơn nhu cầu truyền thông cá nhân. Ví dụ như, Phua, Jin và Kim đã thấy rằng các tương tác trên Snapchat cũng tương tự như các tương tác được tìm thấy trong các mối quan hệ gần gũi giữa các cá nhân. Ứng dụng này đã được sử dụng để đạt được sự hỗ trợ về mặt cảm xúc từ những người khác, tìm kiếm lời khuyên về các quyết định quan trọng và tìm kiếm sự giúp đỡ để giải quyết các vấn đề, thỏa mãn nhu cầu xã hội hóa, trút bỏ cảm xúc tiêu cực và kết nối với người khác.[17]

Những ứng dụng khác

Có nhiều khía cạnh khác của TSDVHL được đặc trưng trong việc sử dụng các trang web khác có liên quan đến mạng xã hội. Nhiều dịch vụ đánh giá, chẳng hạn như Yelp.com, có một khía cạnh của mạng xã hội, với hồ sơ người dùng và khả năng kết nối. Nhiều trang web tin tức có khả năng chia sẻ bài viết và hình ảnh trực tiếp từ trang của họ đến các trang cá nhân của người dùng trên các nền tảng mạng xã hội. Có thể hiểu, tìm kiếm thông tin là một mục đích sử dụng và hài lòng áp đảo cho các ứng dụng này, đặc biệt là các trang web đánh giá như Yelp.com. Các mục đích sử dụng và hài lòng khác bao gồm giải trí, sự tiện lợi, tiện ích giữa các cá nhân và thời gian trôi qua. Một khía cạnh xấu của TSDVHL và một lý do để sử dụng phương tiện truyền thông xã hội là thiết lập một nền tảng đe dọa trực tuyến.

Mọi người tham gia trực tuyến trên mạng và thông qua phương tiện truyền thông xã hội để tự làm hài lòng bản thân họ. Bắt nạt trên mạng đáp ứng nhu cầu báo thù và độc hại, đồng thời tránh tiếp xúc trực tiếp[18]. Tương tự, bên cạnh việc tìm kiếm thông tin, người dùng chia sẻ tin tức được thúc đẩy bởi mục đích sử dụng và hài lòng trong việc xã hội hóa và tìm kiếm trạng thái, đặc biệt nếu họ đã có kinh nghiệm trước đó với phương tiện truyền thông xã hội.[19]

Tin nhắc tức thời

Cũng như tin nhắn văn bản thông thường, mục đích sử dụng và hài lòng đối với tin nhắn tức thời hay trò chuyện trực tuyến cũng đã được nghiên cứu[20], và những kết quả này cũng thay đổi dựa trên giới tính:

  • Sự thư giãn
  • Sự giải trí
  • Thời trang
  • Sự bao gồm
  • Cảm xúc
  • Sự hòa đồng
  • Sự thoát hiểm

Một lần nữa, sự khác biệt được tìm thấy dựa trên thời lượng sử dụng và giới tính. Những người sử dụng tin nhắn tức thời thường xuyên được phát hiện là dễ bị tác động bởi tình cảm và tính xã hội. Những người không sử dụng tin nhắn tức thời thường xuyên thì bị tác động bởi tính thời trang. Phụ nữ trò chuyện lâu hơn đàn ông vì mục đích xã hội, đàn ông trò chuyện ít hơn phụ nữ vì mục đích để thư giãn và giải trí.[20]

Chơi game trực tuyến

Phần này của nghiên cứu khám phá việc sử dụng và sự hài lòng trong việc chơi game trực tuyến. Thành tích, sự thích thú và tương tác xã hội đều là động lực để bắt đầu chơi một trò chơi trực tuyến, và việc thành công trong trò chơi đó cũng như những điều khác đều đạt được sự hài lòng cho sự tiếp tục chơi của họ.[21]

Chơi game điện thoại và thực tế tăng cường

Năm 2017, các nhà nghiên cứu áp dụng Thuyết sử dụng và hài lòng để tìm hiểu về hành vi giữa các người chơi Pokémon Go. Kết quả cho thấy rằng sự hứng thú, hoạt động thể chất, sự hồi ức, hình ảnh, những tác động và quy trình kích thích nhiều dạng hành vi của người dùng. Tuy nhiên, những rủi ro về thể chất có thể gặp phải (nhưng không phải là rủi ro về bảo mật) dẫn đến dạng sử dụng kém đi. Nghiên cứu này cho thấy Thuyết sử dụng và hài lòng cung cấp một quy trình tiềm năng để tìm hiểu về thực tế tăng cường, và cung cấp một nền móng chắc chắn để có thể bổ sung vào các học thuyết khác.

Tin tức hoạt hình

Vào năm 2011, một cuộc thử nghiệm đã được thực hiện với 312 sinh viên đại học để tìm hiểu về góc nhìn của họ về việc họ xem tin tức hoạt hình. Việc sử dụng tính chất hoạt hình vào tin tức đã được xem như là một kỹ thuật mới nổi trong việc báo cáo tin tức vào thời điểm đó.[22] Những người được phỏng vấn / trả lời đã đưa ra 59 câu khẳng định để đánh giá dựa trên / theo mức độ mỗi câu nói áp dụng vào việc xem tin tức hoạt hình. Phân tích nhân tố và hồi quy phân cấp đã được sử dụng để phân tích dữ liệu.

Trong nghiên cứu này, bảy động cơ đã được xác định thông qua phân tích nhân tố để xem những đoạn tin tức hoạt hình. Nhưng động cơ bao gồm sự đồng hành, tương tác xã hội, sự thư giãn, tìm kiếm thông tin, học tập giữa các cá nhân, giải trí và thời gian trôi.

  • Động lực tương tác xã hội: Nhận thông tin để tạo điều kiện thỏa luận với những người khác.
  • Động lực thư giãn: Xem tin tức hoạt hình để giải tỏa căng thẳng / áp lực và thư giãn (unwind).
  • Động lực tìm kiếm thông tin: Xem tin tức hoạt hình để bắt / theo kịp các sự kiện hiện tại hoặc tìm kiếm thông tin.
  • Động lực giải trí: Xem tin tức hoạt hình để giải trí và thưởng thức.
  • Động lực giết thời gian: Xem tin tức hoạt hình để sử dụng thời gian hoặc khi cá nhân đó không có gì để làm.
  • Động lực học tập giữa các cá nhân: Mong muốn hiểu được tâm lý của bạn bè hoặc những người / cá nhân khác nhờ vào xem các đoạn tin tức hoạt hình được chia sẻ bởi những người đó.
  • Động lực đồng hành: Giảm bớt sự cô đơn.

Kết quả phân tích hồi quy phân cấp cho thấy / gợi ý các mối quan hệ tiên đoán giữa các đặc điểm tính cách (tìm cách cảm giác và kiểm soát), bảy động cơ, tác động của độ tin cậy và và tin tức nhận thức / lĩnh hội (perceived news credibility and newsworthiness), và ý định chia sẻ các đoạn tin tức hoạt hình với những người khác.

Phương tiện giải trí

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các phương tiện truyền thông được sử dụng cho mục đích giải trí (ví dụ: phim, bài hát, truyền hình, v.v.) có phạm vi sử dụng rộng rãi và sự hài lòng về cảm xúc,[23] và những phương tiện này không loại trừ nhau nhưng có thể chồng chéo lẫn nhau. Rehman (1983) đã chứng minh mối quan hệ giữa sự hài lòng được mong chờ và nhận được từ việc xem và tham dự các bộ phim.

  • Quản lý tâm trạng: Đây là sự hài lòng cảm xúc nổi bật nhất của việc sử dụng phương tiện truyền thông. Mọi người thích duy trì trạng thái trung gian và đây là một phương tiện dễ sử dụng. Khi ở trong một tâm trạng tồi tệ, buồn chán, hoặc bị kích thích quá mức, mọi người sẽ tìm kiếm phương tiện truyền thông như một thói quen hoặc một điều để phân tâm khỏi tâm trạng của họ.[24]
  • Bố trí ảnh hưởng: Lý thuyết bố trí ảnh hưởng nói rằng mọi người thích cổ vũ cho các nhân vật được miêu tả là tốt và có đạo đức. Người dùng có được sự hài lòng khi những điều tốt xảy ra với các nhân vật tốt và cả khi những điều xấu xảy ra với các nhân vật xấu.[25]
  • Chuyển giao kích thích: Mục đích sử dụng và hài lòng cho các phương tiện truyền thông này khiến mọi người cảm thấy lo lắng cho các nhân vật mà họ cho là "tốt", và điều này thậm chí còn hài lòng hơn nếu cuối cùng nhân vật đó được "thưởng".[26]
  • Tìm kiếm cảm giác: Mục đích sử dụng và hài lòng này có thể được hiểu khi coi sự phấn khích là kết quả của nó.[27]
  • Các phương thức tiếp nhận: "Liên quan đến cảm xúc tương quan với các phương thức tiếp nhận khác, đặc biệt là liên quan đến sự chết chóc (bị cuốn vào thế giới hư cấu), liên quan đến xã hội (xác định nhân vật) và liên quan đến bản ngã (liên quan đến bộ phim với cuộc sống của chính mình).... Sự liên quan đến cảm xúc có thể hữu ích cho việc theo đuổi nhiều mục tiêu rộng lớn hơn trong quá trình tiếp nhận.... Có thể kết luận rằng trải nghiệm của cảm xúc có thể hoạt động theo một số cách khác ngoài việc điều chỉnh cảm xúc theo cách hóa trị tình cảm và kích thích. "[28]
  • Động lực nội tại: Nếu người dùng gặp thử thách đối với các kỹ năng liên quan đến truyền thông của mình, nhưng không đến mức bị nản lòng hoặc choáng ngợp, thì sự hài lòng là phần thưởng trong cảm giác về năng lực truyền cảm hứng cho người dùng tiếp tục sử dụng phương tiện truyền thông câu hỏi[29]
  • Điều chỉnh tâm trạng: Người dùng hài lòng bằng cách sử dụng phương tiện truyền thông để điều chỉnh tâm trạng của họ với bất cứ điều gì hiện đang xảy ra. Chẳng hạn, một khi đã bị một kẻ xâm lược khiêu khích và hứa sẽ có cơ hội trả thù, con đực bị phát hiện thích tin xấu hơn tin tốt trong khoảnh khắc đầy cảm xúc đó.[30]
  • Giới tính xã hội của các cảm xúc: Việc sử dụng này được thỏa mãn bởi ý tưởng rằng phụ nữ thích cảm giác buồn theo hướng khác (đồng cảm, cảm thông và thương hại) bởi vì giá trị văn hóa của chúng tôi và xác nhận phụ nữ cảm nhận những điều này; tương tự, các cặp vợ chồng tuổi teen thích xem những bộ phim đáng sợ để nam giới cảm thấy được bảo vệ và nữ giới cảm thấy dễ bị tổn thương.
  • Các chức năng của giải trí: Mục đích sử dụng và hài lòng đặc biệt này sử dụng giải trí để áp dụng các bài học hoặc thoát khỏi các mối quan hệ ngoài đời thực của người dùng.[31]
    • Mối quan hệ Parasocial: Người dùng phương tiện giải trí đôi khi sử dụng nó để thỏa mãn nhu cầu kết nối xã hội bằng cách trở nên gắn bó với các nhân vật được thấy trên phương tiện giải trí, chẳng hạn như nhân vật trong một chương trình truyền hình hoặc phát thanh viên.[32]
    • Trải nghiệm của Vicarious :Một cách sử dụng và hài lòng liên quan đến phương tiện giải trí là ý tưởng sống qua các nhân vật được miêu tả và tưởng tượng về cuộc sống của họ bằng cách áp dụng quan điểm của các nhân vật.[33]
    • So sánh xã hội đi xuống: mục đích sử dụng và hài lòng này cho rằng chúng ta thích tham gia vào các phương tiện truyền thông miêu tả những người tương tự hoặc tồi tệ hơn chúng ta.[34]
    • Động lực của Eudaemonic: Người tiêu dùng truyền thông cũng chuyển sang phương tiện giải trí để tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc hơn, hiểu biết, mục đích cho cuộc sống, tìm kiếm cái đẹp, nâng cao tinh thần, trải nghiệm cảm xúc mạnh mẽ và hiểu cách người khác nghĩ và cảm nhận.[35]